Kỷ luật lao động đóng vai trò then chốt trong việc duy trì trật tự, hiệu quả và năng suất trong quá trình sản xuất và hoạt động kinh tế của mọi xã hội. Nó không chỉ là công cụ điều chỉnh hành vi người lao động mà còn là yếu tố phản ánh mối quan hệ sản xuất trong một nền kinh tế cụ thể. Tuy nhiên, dưới các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, đặc biệt là giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội, cách thức tổ chức, quản lý và thực thi kỷ luật lao động lại có sự khác biệt rõ rệt , cả về mục tiêu, bản chất lẫn phương pháp thực hiện và những hiệu quả chúng mang lại
Trước tiên thì ta phải hiểu rõ, Kỹ luật lao động là sự chấp hành nghiêm túc và đúng đắn chế độ làm việc cần thiết của mỗi người tham gia sản xuất. Kỹ luật lao động tạo ra sự hài hòa trong hoạt động của tất cả các yếu tố sản xuất, liên kết mọi người vào một quá trình thống nhất, đồng thời biến sức lao động cá nhân thành của cả xã hội hợp lại, từng người tham gia quá trình lao động thực hiện chế độ làm việc đã được quy định, hoạt động phối hợp chặt chẽ giữa người với người. Song, tính chất và bản chất của kỹ luật lao động và các biện pháp để củng cố nó phụ thuộc vào loại hình quan hệ sản xuất, hay là nền kinh tế và chế độ nếu nói một cách dễ hiểu.
Có hai loại kỹ luật lao động phổ biến tương ứng với hai hình thái kinh tế - xã hội đối lập nhau, đó là Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Trước hết hãy bàn về xã hội tư bản chủ nghĩa, ở đây, người công nhân phải phục tùng gần như tuyệt đối nhà tư bản, một trật tự mà trong đó người công nhân dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa, vì nỗi lo và sợ hãi về đói rét, và sự bần cùng đe dọa đến cả tính mạng không chỉ họ mà còn cho cả gia đình. Những thứ ấy như một áp lực vô hình đè lên người lao động những trách nhiệm và công việc nặng nhọc không tài nào kể xiết được, họ phải lao động trong môi trường độc hại không chỉ cho cơ thể vật lý mà cả tinh thần, khiến họ lao đầu vào mà làm việc điên cuồng và cống nạp sức lao động không công cho nhà tư bản, hay các sản phẩm lao động thặng dư. Đặc biệt trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày nay, dù cho lao động chân tay có phần nhẹ nhàng hơn ngày trước nhưng lại làm dấy lên một mối lo mới cho người vô sản, đó là mối lo về việc bị đuổi khỏi xí nghiệp, nhà máy, nơi làm việc đặc biệt vào các đợt cắt giảm nhân sự, hoặc như ở Việt Nam ta không khó thấy các doanh nghiệp sa thải hàng loạt người lao động khi Tết đang cận kề, thế là nhà tư bản khỏi phải tốn thêm “lương tháng 13” cùng hằng hà sa số những phúc lợi khác như quà tặng cho người lao động vào Tết mặc dù Bộ luật lao động đã ra sức cấm cản điều này [1]. Nói chung cái mối lo ấy là thứ mang tính chất cưỡng bức cực kỳ then chốt của giai cấp tư sản áp đặt cho họ (bởi nền Kinh tế thị trường không bao giờ thoát khỏi nạn đói nghèo thất nghiệp và bần cùng) đã thúc ép người vô sản phải thực hiện theo mọi yêu cầu và mong muốn, trọng trách của nhà tư bản giao cho họ trong quá trình lao động ngay khi họ đã làm đủ 8 tiếng/ ngày.
Ở Việt Nam việc người lao động bị ép làm quá giờ chỉ để thõa mãn thú tính phi đạo đức của đám chủ tư bản để tận thu giá trị thặng dư là không hề hiếm: “Công nhân bị buộc làm tăng ca 17 giờ/ngày, trong khi quy định chỉ cho phép làm việc tối đa 12 giờ/ngày . Chúng tôi đã lập biên bản xử lý vi phạm hành chính đối với công ty THHH Việt Nam Knitwear vì bắt công nhân làm việc vượt quá số giờ quy định, ông Trọng cho biết.” [2] hoặc là: “Năm 2024, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai đã xử phạt nhiều doanh nghiệp vì huy động công nhân làm thêm giờ vượt quá quy định. Cụ thể, Công ty TNHH Nhựa Good View huy động 220 người lao động làm thêm vượt quá 300 giờ/người/năm, có trường hợp lên đến 1.261 giờ/người/năm. Mỗi doanh nghiệp vi phạm bị xử phạt 100 triệu đồng.” [3].
Nói chung là qua một vài ví dụ trên về thực tiễn Việt Nam thì ta thấy rằng, hệ thống sản xuất băng tải và những dây chuyền có tác dụng và ảnh hưởng cực lớn đến người vô sản, đã bị những chủ tư bản lợi dụng để thúc ép tiến độ làm việc đặc biệt khẩn trương không ngơi nghỉ được vì chỉ cần sai một ly, hụt một người thì cả cái hệ thống đồ sộ ấy sẽ dính ngay vấn đề về vận hành, năng suất và gây ảnh hưởng khủng khiếp cho các quá trình và các công nhân sau, và đương nhiên người lao động phải gánh chịu hậu quả rồi. Do ấy tính hối hả khẩn trương chỉ để chạy theo các cơ sỏ vật chất ấy và sản xuất hàng hóa đáp ứng cái nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là một trong các phương thức “bòn rút mồ hôi” của các ông chủ đại tư sản khiến vấn đề bần cùng hóa luôn luôn hiện hữu ở mọi nơi, chúng thậm chí còn chơi cả chiêu trò cắt giảm thiết bị bảo hộ và an toàn lao động khiến mỗi ca làm việc của công nhân như vào sinh ra tử: “Mặc dù có vẻ hợp lý khi chờ đợi một cuộc điều tra vô tận trước khi bình luận, với năm đồng nghiệp đã chết, nhưng không thể im lặng và không chỉ ra tình hình mà ngành khai thác mỏ Asturian đang phải đối mặt, tình hình này ngày càng trở nên tồi tệ hơn với mức đầu tư tối thiểu và các biện pháp an toàn ngày càng hạn chế. Đây không phải là điều gì mới mẻ, và Đảng của chúng ta đã lên án điều này trong nhiều năm, chỉ ra rằng việc ký hợp đồng phụ và cấp phép cho các công ty có năng lực kỹ thuật đáng ngờ là mối nguy hiểm đối với sự an toàn của thợ mỏ và tương lai của các mỏ.” [4].
Đặc biệt trong thời kỳ tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, khi giai cấp tư sản các nước đế quốc đang trong cơn giãy chết trước hồi cáo chung khiến chúng càng tăng cường đi ăn cướp các nước bé hơn như cuộc xâm lược của Nga vào U-cờ-ren, I-xra-en vào Pa-le-xtin, tài trợ quân sự của Hoa Kỳ cho các băng nhóm khủng bố hoặc chính sách thực dân kiểu mới của đám phương Tây tại châu Phi làm cho nhu cầu ngày càng tăng cao của ngành công nghiệp quốc phòng để kip thời sản xuất những thứ vũ khí gi#t người, những cỗ máy chiến tranh làm cho người lao động đã bị bóc lột nay còn bị cưỡng bức tàn nhẫn hơn, họ đứng trước lựa chọn: Làm hoặc chết vì đói và rét. Đương nhiên họ phải làm chứ, còn hơn là chết, và càng làm thì càng nghèo đi chứ chả thấy cải thiện hơn như trong những lời hứa hẹn đầy màu hồng của giai cấp tư sản đế quốc: “Một báo cáo mới của nhóm nghiên cứu tại Đại học Columbia và Robin Hood, một nhóm chống đói nghèo, tiết lộ một thực tế tàn khốc: Một trong bốn người dân New York sống trong cảnh cực kỳ nghèo đói. Điều này có nghĩa là tỷ lệ đói nghèo của thành phố này gần gấp đôi mức trung bình của cả nước. Không có gì ngạc nhiên khi cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản đang giáng đòn mạnh vào những người nghèo nhất hơn bất kỳ ai khác. Báo cáo, một nghiên cứu kéo dài khoảng 13 năm khảo sát một mẫu đại diện gồm hơn 3.000 hộ gia đình ở Thành phố New York, cho thấy rằng tình trạng nghèo đói ở New York đã tăng 7 phần trăm chỉ trong hai năm.” [5]
Nào! Tóm lại thì kỷ luật lao động tư bản chủ nghĩa là hình thái cưỡng bức buộc người lao động phải làm việc điên cuồng cho những nhà tư bản, không làm thì chết đói chứ chẳng có gì cứu rỗi họ, họa chăng là mấy chương trình từ thiện hoặc chút ít phúc lợi xã hội, và thúc ép họ lao động trong mọi điều kiện tệ hại hết mức với các sắc lệch đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối vào chủ tư sản ví như Táp Hác-lây ở Hoa Kỳ những năm 197x. Điều này khiến cho người lao động không tránh khỏi trạng thái mệt mỏi kiệt quệ, sự bần cùng và cái nghèo chực chờ kế bên có thể đến vào bất kỳ lúc nào. Kỷ luật lao động tư bản chủ nghĩa là một trong những then chốt gây nên sự thiếu tự giác của người lao động vì họ làm chỉ do bị ép và phải tuân theo, từ đó kết hợp với thể trạng ngày càng tệ đi khiến năng suất sản xuất của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hao hụt đáng kể, dễ dàng nổ ra khủng hoảng nhân công và khủng hoảng kinh tế do vật giá thì cao mà lao động nghèo chẳng có tiền mua.
Nếu như kỷ luật lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa chủ yếu nhằm bảo vệ lợi ích của giới chủ tư sản và phục vụ mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, thì trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, kỷ luật lao động lại được xây dựng trên một nền tảng và mục tiêu hoàn toàn khác biệt. Kỷ luật này được xây dựng dựa trên sự lao động tự giác của những người đã thoát khỏi ách bóc lột, nô dịch của nhà tư bản và địa chủ, họ giờ đây làm việc và cống hiến cho xã hội, và cho bản thân mình, việc tổ chức lao động xã hội dưới xã hội Xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở lao động được chấp hành một cách tự nguyện vì nó phục vụ cho lợi ích bản thân người lao động, họ được sống và làm chính mình chứ không như sự ép buộc bằng vũ lực và đe dọa như xã hộ tư bản chủ nghĩa. Cơ sở tạo nên kỷ luật lao động Xã hội chủ nghĩa là chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất, ai cũng có quyền ngang nhau trước những thứ ấy cùng với sự hợp tác đồng chí anh em tương trợ lẫn nhau đã cùng lật đổ nền thống trị năm xưa và bắt tay xây dựng xã hội mới tiên tiến, tiến bộ hơn vạn lần.
Kỷ luật lao động Xã hội chủ nghĩa được tăng cường và gây dựng bằng cách phát triển sự tổ chức một cách khoa học và kế hoạch hóa nền sản xuất, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần thi đua Xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ hoàn toàn những thiên kiến, tập quán và truyền thống giả dụ “thân ai nấy lo” do chế độ tư bản chủ nghĩa đem lại. Điều quan trọng và tiên quyết nhất để tăng cường kỹ luật lao động trong xã hội xã hội chủ nghĩa là hạch toán rõ ràng và giám sát phân chia mức lao động, mức tiêu dùng và trả công theo số lượng và chất lượng của lao động đã hao phí khi sản xuất, bảo đảm lợi ích cá nhân “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng” và lợi ích xã hội. Việc tăng cường nền kỷ luật này đòi hỏi ngoài biện pháp thuyết phục ra còn phải dùng cưỡng bách với các cá nhân, phần tử cố tình vi phạm kỷ luật, chỉ chuyên mưu lợi ích riêng và làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước và xã hội.
Ta sẽ lấy vài ví dụ cho dễ hiểu cái đống ở trên nhé:
- Điều 12 Hiến pháp LBCHXHCN Xô-viết năm 1936 ghi rõ: Ở Liên Xô, lao động là nghĩa vụ và là danh dự của mọi công dân có năng lực, theo nguyên tắc: "Ai không làm việc thì không được ăn". Nguyên tắc được áp dụng ở Liên Xô là nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội: "Làm theo năng lực, hưởng theo công sức". [6]
- Điều 60 Hiến pháp LBCHXHCN Xô-viết năm 1977 ghi rõ: Mỗi công dân Liên Xô có nghĩa vụ và danh dự là phải làm việc tận tâm trong lĩnh vực đã chọn, hoạt động có ích cho xã hội, chấp hành kỷ luật lao động. Việc trốn tránh lao động có ích cho xã hội là không phù hợp với các nguyên tắc của xã hội xã hội chủ nghĩa. [7]
Khi nêu đặc điểm của kỷ luật lao động Xã hội chủ nghĩa, Vla-đi-mia I-lích-sơ Lê-nin đã chỉ rõ rằng việc tổ chức lao động của chế độ phong kiến dựa vào roi vọt, của chủ nghĩa tư bản dựa trên kỷ luật đói rét thì “Tổ chức lao động xã hội của chủ nghĩa Cộng sản mà bước đầu tiên là chủ nghĩa Xã hội, thì dựa vào và ngày sẽ càng dựa vào một kỷ luật tự giác và tự nguyện của chính ngay những người lao động...” [8]. Kỷ luật lao động Xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có thái độ sáng tạo đối với lao động, phải làm sao cho nó trở thành lao động có năng suất nhất, đòi hỏi sự quan tâm thật sự làm chủ của mỗi người lao động với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, điều này trái ngược với ở xã hội tư bản chủ nghĩa khi chỉ các ông chủ tư bản mới là người nắm quyền và quyết định sẽ sản xuất gì, ra sao, như nào. Có thể nói đây là điểm đặc biệt vượt trội của nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa so với kinh tế thị trường khi trực tiếp trao quyền quyết định cho người lao động, họ thật sự được làm chủ!
Về tính vô kỷ luật của một người lao động nào đó, vi phạm cam kết đối với các thành viên khác của tập thể, sự bất tuân và ngừng hoạt động chỉ của một cỗ máy hoặc một đường dây trong ngành đại công nghiệp Xã hội chủ nghĩa có thể dễ dàng gây phản ứng dây chuyền và thiệt hại đáng kể cho sản xuất và phát triển. Kỷ luật lao động cao ở Xã hội Xã hội chủ nghĩa là cái then đặc biệt trấn giữ không cho điều ấy xảy ra, đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng, công tác và nâng cao hiệu quản sản xuất. Việc xí nghiệp chấp hành kỷ luật kế hoạch và thực hiện những điều cam kết trong hợp đồng về cung cấp sản phẩm gắn chặt với việc củng cố kỷ luật lao động. Trong Xã hội Xã hội chủ nghĩa, kỷ luật lao động được củng cố từ nhờ các biện pháp tác động về tinh thần và vật chất giả dụ như vinh danh anh hùng thi đua lao động, tặng thưởng sản phẩm lao động, quà,.... Đồng thời, việc giáo dục thái độ lao động Cộng sản chủ nghĩa, phát triển phong trào thi đua Xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa phát triển, các biện pháp xã hội nhằm tác động đến những người vi phạm kỷ luật như: thảo luận trong các hội nghị tập thể, trong các tổ chức xã hội, v.v. về hành động của họ, ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Các tập thể sản xuất, lao động đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục kỷ luật tự giác. Đối với những người lao động vi phạm kỷ luật lao động, có thái độ vô trách nhiệm đối với nhiệm vụ thì người ta áp dụng các biện pháp tác động về mặt xã hội, kể cả thi hành kỷ luật (phê bình, cảnh cáo, chuyển sang làm công việc có mức lương thấp hơn trong thời hạn không quá 3 tháng, thải hồi). Trong những trường hợp nhất định, người vi phạm buộc phải chịu trách nhiệm vật chất về những thiệt hại đã gây ra cho sản xuất.
Tóm lại thì kỷ luật lao động trong Xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để kiểm soát và bóc lột người lao động như trong xã hội tư bản, mà được xây dựng trên nền tảng tự giác, tự nguyện và ý thức trách nhiệm của người lao động đối với xã hội và bản thân, họ được thực sự làm chủ và tự do sáng tạo theo nhu cầu phát triển, nhu cầu xã hội. Đồng thời kỷ luật này được xây dựng gắn bó mật thiết với quy tắc phê bình – tự phê bình và tập trung dân chủ, tạo nên sức phát triển mạnh mẽ có kế hoạch và là bước tiến lớn so với nên sản xuất tư bản chủ nghĩa.
-----------------------------------------------------------
Bài viết này được viết dựa trên mục:
Kỹ luật lao động (Từ điển Kinh tế chính trị học, NXB Sự thật – NXB Tiến Bộ, Mátxcơva năm 1987)
Kỹ luật lao động TBCN/XHCN (Từ điển Kinh tế, NXB Sự thật năm 1976)
Và bài báo: https://tapchicongsan.org.vn/.../mot-so-quan-diem-co-ban...
Xin chân thành cảm ơn các tác giả vì nguồn tư liệu quý hiếm và bổ ích
-----------------------------------------------------------
Một vài tài liệu tham khảo cho ví dụ trong bài viết:
[5]: https://www.idcommunism.com/2025/03/new-york-citys-working-class-is-hit-by-extreme-poverty.html
[8]: V. I. Lênin toàn tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, tập 39, trang 36.
0 Reviews:
Đăng nhận xét