“Không có bạn bè vĩnh viễn không có kẻ thù vĩnh viễn chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Dạo đây, chúng ta nghe nhiều về luận điệu này. Thoạt nhìn thì đây có vẻ là một lời tuyên bố hào hùng, là một nghĩa cử yêu nước, nhưng thực chất chỉ là một lời cổ xúy cho “Chủ nghĩa dân tộc”. Bởi ranh giới giữa lòng yêu nước và sự cổ vũ cho đấu tranh dân tộc cực đoan là rất mong manh.
Vậy thì, dân tộc là gì? "Dân tộc là một khối người cộng đồng ổn định, thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và hình thành tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn hóa" [1]. Suy rộng ra, đó chính là quá trình đoàn kết của dân tộc ấy trong tiến trình phát triển xã hội và đấu tranh. Dân tộc không phải là một thứ gì đó trừu tượng, một tính cách đặc biệt. Nó phải gắn liền với lịch sử xã hội loài người, mà “Lịch sử của tất cả xã hội cho đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”[2] , vì vậy những cuộc đấu tranh của dân tộc phải gắn liền với đấu tranh giai cấp.
Trong 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam, tuy từng cộng đồng đồng bào đều có những biểu hiện đầy đủ của một dân tộc, nhưng không tách rời khỏi khối đại đoàn kết chung của nhân dân ta, của “Dân tộc Việt Nam”. Khối đại đoàn kết ấy đã trải qua những cuộc đấu tranh giai cấp, của những con người bị áp bức vùng lên chống lại những kẻ áp bức. Là những cuộc tranh đấu không ngừng nghỉ của tầng lớp cần lao chống lại ách nô dịch của bọn phong kiến phản động, của bọn đế quốc, thực dân, của bọn bá quyền bành trướng. Như vậy, công cuộc đấu tranh của nhân dân ta luôn gắn liền với ý chí của tầng lớp tầng lớp cần lao, của giai cấp vô sản.
Chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm ở chỗ, nó làm cho rộng rãi tầng lớp dân chúng bỏ qua những vấn đề xã hội, những vấn đề giai cấp để quay về những vấn đề dân tộc, những vấn đề chung cho vô sản và tư sản. Điều đó tạo ra một cơ sở thuận lợi cho việc tuyên truyền dối láo về “Hòa hợp quyền lợi”, làm cho giai cấp vô sản dần xa rời khỏi công cuộc đấu tranh của mình, mờ mắt về những quyền lợi của mình, để thuận lợi nô dịch công nhân về phương diện tư tưởng và tinh thần. Tóm lại, nó là cuộc chiến của giai cấp tư sản.
Khác với chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước không bắt nguồn từ những tư lợi ích kỉ và những lời hứa hão huyền về sự hòa hợp chắp vá. Chủ nghĩa yêu nước bắt nguồn từ những thứ tình cảm bình dị và thiêng liêng nhất. Đó là tình yêu đối với quê hương, yêu cảnh vật, yêu con người xung quanh. Ta yêu những cánh diều cao vút những buổi chiều lộng gió, ta yêu những buổi trưa hè thanh thanh lời mẹ ru, yêu mái nhà tranh, yêu lũy tre làng,… Tất cả những thứ bình dị ấy kết tinh thành lòng nồng nàng yêu nước của nhân dân ta. Ta đem lòng yêu thương những thứ bình dị, cho nên khi ta thấy những thứ ấy bị bọn cường quyền giẫm đạp lên, bị cho đao kiếm, bom đạn của thực dân, đế quốc hủy hoại, ta không khỏi căm phẫn tột cùng. Nó thôi thúc ta phải đứng lên để bảo vệ, để đấu tranh. “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc” [3] , tất cả đều ra sức thi đua, học tập, sản xuất và chiến đấu không ngừng nghỉ, tất cả đều kết thành lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta.
Nếu xem Chủ nghĩa yêu nước là “chất”, thì tất cả những thứ bình dị kết thành lòng yêu nước của nhân dân ta là “lượng”, và là “lượng vừa đủ”. Khi lượng bắt đầu trở nên dư thừa, tức là cảm xúc của chúng ta không chỉ dừng lại ở những thứ tình cảm chân phương, mộc mạc ấy nữa, mà đã tiến lên thành lòng tự tôn dân tộc cực đoan, muốn mình là nhất, các dân tộc khác đều không xứng tầm,… thì nó bắt đầu tạo ra sự méo mó về chất, đó chính là “Chủ nghĩa dân tộc”. Biểu hiện của nó là cái thói Sô-vanh xã hội, đi mạc sỉ, hạ bệ dân tộc khác để đề cao dân tộc của mình lên với lòng tự tôn hão huyền. Đó cũng chính là thực trạng đáng quan ngại của một bộ phận người trẻ ngày nay.
“Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”[4] .Giai cấp vô sản đã giác ngộ, có ngọn cờ của riêng mình, ngọn cờ đã được tôi luyện qua biển lửa, qua máu và nước mắt, sẽ không cần đứng dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản. Ngược lại, khi nào phong trào giải phóng công nhân càng suy thoái, chủ nghĩa dân tộc sẽ càng đơm hoa, nở rộ. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và “độc lập, tự do” phải gắn liền với CNXH, với tinh thần quốc tế vô sản. Đó chính là con đường mà Đảng và Nhân dân đã lựa chọn.
Lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta, trước hết cần phải được hiểu đúng. Hiểu đúng rồi thì phải biểu hiện làm sao cho đúng. Chúng ta yêu nước, không chỉ bằng lòng nhiệt thành của con tim, mà còn phải bằng sự sáng suốt và kiên định từ lý trí.
____________________________
[1]: Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc – J.Stalin, NXB. Sự thật, 1970.
[2]: Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản – C.Mác và F.Ăngghen, NXB. Sự thật, 1960.
[3] & [4]: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần II, 1951, phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

0 Reviews:
Đăng nhận xét