Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2025

NESTLÉ VÀ CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC KIỂU MỚI - HỒNG LIÊM







“Nước không phải là một quyền con người”[1]. Những lời sấm truyền này chính là phát ngôn của Peter Brabeck - cựu CEO và Chủ tịch Nestlé. Có lẽ nhân loại có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra được một ngày nào đó, ngay cả cái quyền căn bản nhất, thuần túy nhất để có thể duy trì sự sống của mình, nay lại bị tước đoạt một cách dã man bởi một “thế lực thần thánh” giữa thanh thiên bạch nhật. Nghiệt ngã hơn, ngay cả cái “thế lực” đó còn ghi rõ ràng trong phân mục “Giá trị cốt lõi” của mình: “tôi muốn hình thành một thế giới tốt đẹp hơn và lành mạnh hơn”[2]. Chủ nghĩa đế quốc kiểu mới, đang lộng hành hơn, tinh vi hơn bao giờ hết. Chúng không ra sức vơ vét, bóc lột và đàn áp tàn bạo như những vị tiền bối đáng kính của chúng từng làm, vì với cái gọi là pháp quyền quốc tế ngày nay, chúng sẽ lâm vào thế nguy. Thay vào đó chính là những sự bòn rút sức lao động của các nước kém phát triển, độc quyền hóa nguồn tài nguyên cơ bản ở những nước này, làm cho nhân dân lao động phải gắn chặt cái đời sống của mình vào cái dây chuyền sản xuất TBCN và lệ thuộc triệt để vào việc tiêu thụ sản phẩm của chúng, làm cho đời sống của nhân dân các nước ngoại vi phải chịu sự lu hoại một cách từ tốn, chậm rãi.


1. ĐỘC QUYỀN HÓA NGUỒN NƯỚC VÀ LỢI DỤNG NGUỒN CUNG LAO ĐỘNG RẺ MẠC


Nói về nguồn nước, quả thật là Peter Bracbeck đã không hề che dấu đi dã tâm đế quốc của mình, khi ông còn nhấn mạnh thêm, rằng lối tư duy: “nước nên được coi là một quyền chính đáng” là một “lối suy nghĩ cực đoan”. Có lẽ chúng ta nên hiểu từ “cực đoan” ở đây chính là “cực đoan” đối với những món hời thặng dư dành cho các ngài tư sản. Nếu vậy thì, kể cả chúng ta có đem những phạm trù về đạo đức và nhân quyền đặt lên bàn để nói, e là cũng không mấy thuyết phục đối với Peter Brackbeck, vậy thì tôi xin được dùng tới pháp lý. Nghị quyết 64/292, đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua, tuyên bố: “nước sạch và vệ sinh là quyền con người thiết yếu cho việc thực hiện đầy đủ quyền được sống và tất cả các quyền con người khác.”[3]. Vậy thì cái lối “tư duy tiến bộ” rằng “nước không phải là một quyền con người”, ông Bracbeck của chúng ta lấy gì ra để chứng mình đây?


Quả thật là các ngài tư sản không làm chúng ta thất vọng, họ nói đi đôi với làm. Nestlé đã đặt các nhà máy khai thác nước ngầm tại làng Bhati Dilwan, Pakistan để khai thác tầng nước Indus Basin, một nguồn nước trọng yếu cho đời sống sinh hoạt của người dân nơi này. Người dân địa phương cho biết, mực nước ngầm đã giảm từ 30 mét xuống 90–120 mét (Tính khoảng cách so với bề mặt) trong giai đoạn 2003–2016, khiến họ không còn tiếp cận được nguồn nước sạch. Nestlé chỉ phải trả khoảng 0,00021 Rs (khoảng 0,0000016 USD) cho mỗi lít nước khai thác, trong khi bán lại với giá từ 40–90 Rs mỗi lít. Hơn nữa, khoảng 43% lượng nước khai thác bị lãng phí trong quá trình xử lý, theo một báo cáo pháp y trình lên Tòa án Tối cao Pakistan.[4]. Sở dĩ Nestlé có thể thực hiện được điều này một cách “quang minh chính đại”, chính là nhờ những cái bắt tay từ chính quyền địa phương Pakistan, và cũng như sự giám sát lỏng lẻo của các nhà chức trách đối với hoạt động khai thác nước ngầm của Nestlé .Hoặc giả là họ sơ suất thật, hoặc giả là vì lợi ích nhóm. Nhưng tóm lại, chừng nào đời sống của nhân dân lao động còn được bảo đảm, thì chừng đó các nhà tư bản sẽ không thể hưởng lợi.


Nestlé còn đi xa hơn, khi họ bắt đầu xuất khẩu TBCN sang những nước nghèo nàn lạc hậu, một khi thị trường lao động khu vực đã đạt tới ngưỡng bão hòa. Và thực tế, Nestlé đã bắt đầu sa thải và chấm dứt hợp đồng dài hạn với những công nhân lâu năm tại các nhà máy, thay vào đó là những hợp đồng lao động ngắn hạn và kém ổn định hơn, che mắt công nhân bằng những màn tăng lương cơ bản (với mức tăng nhỏ hơn nhiều lần so với mức lạm phát)[5]. Tệ hại hơn, Nestlé còn đứng trước sự cáo buộc về hoạt động “Nô dịch trẻ em” khi một số trang trại cà phê tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc - nơi Nestlé và Starbucks thu mua hạt cà phê—đã sử dụng lao động trẻ em và vi phạm các tiêu chuẩn an toàn lao động[6].


Một điều dễ hiểu, nếu các nhà tư bản muốn tăng lợi nhuận, họ khó lòng có thể tăng giá bán, vì giá bán - là một yếu tố được quy định chặt chẽ bởi cung cầu và bàn tay vô hình, hay nói cách khác, là nó phải tuân theo luật chơi của thị trường. Vậy thì lợi nhuận của nhà tư bản chỉ có thể tăng khi họ có thể giảm chi phí sản xuất, hay số lao động xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm. Số lao động xã hội cần thiết sẽ giảm xuống nếu năng suất lao động tăng lên. Năng suất lao động tăng lên khi phân công lao động được thực hiện chi tiết hơn. Phân công lao động chi tiết hơn sẽ làm lao động trở nên giản đơn hơn, lao động trở nên giản đơn hơn thì đòi hỏi ít kỹ năng hơn, ít kỹ năng thì chi phí sản xuất ra lao động (hay chi phí học nghề) giảm xuống. Mà chi phí học nghề cùng với giá cả của tư liệu sinh hoạt là hai yếu tố quy định tiền công. Chi phí học nghề giảm thì tiền công của công nhân cũng giảm theo.


Phân công lao động sản sinh ra một tác dụng như thế trên quy mô rộng lớn, nhờ đó mà nhà tư bản có thể loại bỏ những công nhân khéo tay và thay thế họ bằng những công nhân ít khéo léo, thay đàn ông bằng đàn bà, thay người lớn bằng trẻ em. Và chừng nào - bằng bất cứ thủ đoạn gì, nhà tư bản có thể kiếm được những món hời béo bở, thì chừng đó hãy cứ mặc xác sự tồn vong và bần cùng của nhân dân lao động.


2. CHIÊU TRÒ TIẾP THỊ PHÓNG ĐẠI CỦA BÈ LŨ TƯ BẢN LƯƠNG THỰC VÀ TƯ BẢN Y TẾ


Về những cáo buộc về hóa chất trong sữa Nestlé, cũng như hậu quả khi cho trẻ sơ sinh hấp thụ sữa công thức pha sẵn thay vì sữa mẹ, hiện tại đã được công bố rộng rãi trên các trang báo chính thống, vậy thì ở đây tôi xin không bàn lại. Vấn đề là, mặc cho những thực tế đó, làm sao Nestle lại có thể xây dựng được một hình ảnh mẫu mực về một thương hiệu dinh dưỡng gạo cội trong tiềm thức của cộng đồng những bà mẹ bỉm sữa. Vấn đề nằm ở chỗ cái bắt tay của lũ tư bản lương thực và tư bản y tế.


Nestlé có một đội ngũ những người mà họ gọi là “Các chuyên gia và y bác sĩ đầu ngành về dinh dưỡng” để thẩm định và quảng bá cho thương hiệu sữa pha sẵn của họ, hòng đánh vào tâm lý của những bà mẹ. Nhưng thực chất đó chỉ là một sự trá hình trắng trợn, khi chính những nhân viên Nestlé mới là những người mặc bộ đồng phục y tá, đi đến các làng quê nghèo nàn để tiếp thị sữa pha sẵn cho các bà mẹ có con nhỏ và phụ nữ mang thai. Thậm chí không cần phải đến sự thanh trừng của công luận, họ thẳng thừng công khai nó trong cuốn kỷ yếu 100 năm của chính Nestlé[7]. Những chiến dịch được Nestlé gọi là “giáo dục” về kiến thức dinh dưỡng cho các bác sĩ và y tá, thực chất cũng chỉ là một mánh khóe lấy y tế làm công cụ để tiếp thị sản phẩm của mình. Theo Business Abroad “Tại các quốc gia kém phát triển, cách quảng bá thương hiệu sữa tốt nhất của Nestlé là thông qua các phòng khám được họ tài trợ, nơi mà những y bác sĩ cung cấp các dịch vụ về dinh dưỡng và chăm sóc trẻ em”[8]. Và thế là những người dân nghèo khốn khổ, nhẹ dạ cả tin, lại hằn sâu cái quan niệm rằng sữa mẹ tự nhiên sẽ không tốt bằng sữa pha sẵn theo công thức của Nestlé. Và Nestlé hiểu quá rõ điều đó, nên lượng tư bản đổ về các nước kém phát triển nhằm mục đích marketing cho sữa của Nestlé cao hơn gấp nhiều lần so với với các nước phát triển[9]. Những người phụ nữ thì được tiêm nhiễm cho cái lối tư duy khai phóng độc hại, cổ xúy cho việc “bảo vệ vẻ đẹp thuần túy của thân thể” hơn là nuôi dưỡng đứa con ruột thịt bằng nguồn sữa mẹ ấm áp[10]. Và hệ quả là, trẻ em ở các nước ngoại vi nghèo đói lại càng lệ thuộc nhiều hơn vào cái món sữa công thức. Và chắc hẳn rằng, với cái đội ngũ “Các chuyên gia và y bác sĩ đầu ngành về dinh dưỡng”, Nestlé hiểu rõ hơn bao giờ hết, việc lệ thuộc vào sữa công thức ở trẻ em có thể dẫn đến tình trạng suy giảm sức đề kháng, kiết lị ở trẻ hoặc thậm chí là gia tăng tỉ lệ tử vong, nhưng miễn là chừng nào khối lợi nhuận kết xù vẫn chảy về túi các nhà tư sản, chừng đó vấn đề này không mấy quan trọng.


3. THIÊN CHỨC CỦA PHỤ NỮ VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH


Từ thời xa xưa đến nay, bản tính và vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ chính là nằm ở bản tính chăm sóc và nuôi dưỡng. Hóc-môn oxytocin giúp cho người phụ nữ dễ hình thành sự đồng cảm, gần gũi và cho họ khả năng nuôi dưỡng vượt trội, đó chính là thiên chức của người mẹ. Và con người thì rất khó để có thể thay đổi những vai trò cơ bản về sinh học và tâm lý xã hội như việc cho con bú, trừ khi có một cú huých mạnh mẽ. Bởi vì “Con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội”[11], nên “cú huých” đó không gì khác chính là quan hệ sản xuất TBCN.


Dưới xã hội TBCN “Lao động được định nghĩa là những gì xảy ra bên ngoài hộ gia đình… chỉ những ai làm việc (bên ngoài gia đình) mới được công nhận là một thành viên mẫu mực và đáng kính của xã hội”[12]. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình, thiên chức của người mẹ dần bị phai nhòa và lu hoại đi, thay vào đó là những mũi rìu dư luận và truyền thông tư sản thúc ép họ phải dấng thân vào thị trường lao động rẻ mạc. Sẽ thật đáng mừng biết bao nếu như phụ nữ được tạo cơ hội để phát triển toàn diện. Nhưng chính sự phân công lao động cao độ của TBCN mà giờ đây thị trường lao động chỉ cần những lao động giản đơn, lặp lại. Rốt cuộc thì người phụ nữ vẫn phải vừa chịu cảnh nô dịch về thể chất, tinh thần, vừa phải lo làm trọn cái nghĩa vụ “Đảm việc nước, giỏi việc nhà”, họ không còn cách nào khác ngoài việc phải lệ thuộc nhiều hơn, một bên là vào tư bản công nghiệp cho kế sinh nhai, một bên là tư bản lương thực cho đứa con họ không ốm yếu gầy còm. Sự phát triển như cuồng phong vũ bão của TBCN đã đè chết kinh tế hộ gia đình và vai trò của người phụ nữ như thế.


Các nhà tư sản cho rằng, thành phần kinh tế hộ gia đình, ở đây là những hoạt động như chăm sóc con cái, gia đình, nấu ăn, tự trồng trọt,... đều không mang lại sự gia tăng về GNP, nên nó sẽ kéo xã hội đi xuống. Vậy thì ta hãy suy xét thật kỹ lại xem, là chỉ số GNP có thật sự phục vụ cho chất lượng cuộc sống của con người hay không, hay chỉ đơn thuần là thước đo phục vụ cho tư bản. 


Vì các hoạt động của kinh tế hộ gia đình là những hoạt động thoát khỏi thị trường, nên nó không mang lại sự gia tăng về GNP như những hoạt động có sự hiện diện của giao dịch tiền tệ. Nhưng cũng chính vì khi các gia đình tự sản xuất, tái sử dụng, chia sẻ lao động và chăm sóc lẫn nhau, họ giảm sự phụ thuộc vào thị trường luôn biến động, giảm chi tiêu nhưng vẫn bảo đảm chất lượng cuộc sống. Như vậy rõ ràng là kéo theo GNP giảm, nhưng phúc lợi thực tế lại tăng. GNP giảm không phải vì sản xuất giảm, mà là vì phần sản xuất đó không mang lại lợi nhuận cho tư bản.   Nếu nền kinh tế hộ gia đình trở nên năng động hơn trong khi thị trường suy yếu, thì GNP có thể sẽ giảm mặc dù mức sống thực tế có thể được cải thiện. Và lẽ cố nhiên là điều này không mấy hay ho gì với các nhà tư sản, nên họ ra sức dìm chết đi vai trò sản xuất và tái sản xuất của người phụ nữ trong thành phần kinh tế hộ gia đình, khiến họ ngày càng bị lệ thuộc và nô dịch trong dây chuyển sản xuất TBCN. Thiên chức của người phụ nữ đã bị lu hoại như thế. 


LỜI KẾT:

Chủ nghĩa tư bản đã và đang đi đến hình thái cao nhất của nó là chủ nghĩa đế quốc, và sẽ còn càn quét hung hăng hơn bao giờ hết. Quy mô của chúng ngày càng lan rộng và tinh vi hơn. Sẽ không còn những cuộc đàn áp đẫm máu khi xưa, nhưng thay vào đó là sự lu hoại và nô dịch bền bỉ đối với tầng lớp cần lao vào dây chuyền sản xuất TBCN. “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[13]. Vô sản toàn thế giới vẫn sẽ còn chìm vào trong bóng tối triền miên của thống khổ và nghi hoặc, cho đến khi họ giác ngộ được ý thức đấu tranh và đoàn kết lại thành một khối đại đồng.

Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!

____________________________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 

[1]: Trích phát biểu của Peter Brabeck trong bộ phim tài liệu “We feed the world” (2005).https://www.theguardian.com/.../nestle-peter-brabeck....

[2]: https://www.nestle.com.vn/vi/aboutus.

[3]: 64/292. The human right to water and santination, 

https://documents.un.org/.../gen/n09/479/35/pdf/n0947935.pdf.

[4] https://theflaw.org/arti.../nestle-pure-life-or-impure-lies/

[5] https://www.marxist.ca/.../nestles-factory-workers-reject....

[6] https://systemicjustice.org/.../child-labor-in-the.../

[7] Heer, J. World Events 1866-1966: The First Hundred Years of Nestle. Switzerland, 1966.

[8] Business Abroad, June 1970. p.33.

[9] United Nation. Transnational Corporations in Food and Beverage Processing. United Nations Centre on Transnational Corporations, New york, August 1981.

[10] Trích trong: Luận cương về Phơ-bách - K.Marx.

[11] Gonzalez, N. Women and the jural domain: An evolutionary perspective. In Center for Continuing Education of Women, A Sampler of Women's Studies. University of Michigan Press, Ann Arbor, 1973.

[12] Nash, J. Introduction. In Sex and Class in Latin America, edited by J. Nash and H. Safa, J.F. Bergin, New York, 1980.

[13] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, tr. 287.


Share:

0 Reviews:

Lời chào đồng chí

Hình bóng của chúng tôi khi lướt qua Lenin chỉ như những con người xa lạ, hâm mộ Người, tôn trọng Người. Đi lướt qua Người và chìm vào quên lãng... Đọc tiếp

Cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám

CHUYÊN SAN THÉP ĐỎ