Tổ tiên nhân loại: Loài vượn
hay là đất sét ?
Đã hơn 200 năm trôi qua kể từ khi Darwin-ông kẹ của những quý ngài trùm khăn với những phát ngôn huênh hoang về ân điển của chúa- đã lật nhào các hệ thống thần học với công trình nghiên cứu mang tính biểu tượng của cuộc đời mình- Thuyết tiến hóa cổ điển Darwin. Mặc dù vẫn còn những hạn chế và thiếu sót do các yếu tố tất yếu khách quan, nhưng qua quãng thời gian dài được vun đắp và bổ sung bằng các môn khoa học thực nghiệm của tự nhiên, đã đạt được độ hoàn chỉnh và chính xác nhất định. Cho đến nay, thuyết tiến hóa hiện đại-với tiền đề là thuyết tiến hóa cổ điển Darwin, là một trong những luận thuyết khoa học đồ sộ và mạnh mẽ nhất, phổ quát nhất, và không kém phần phổ biến với giới sinh học nói riêng và học thuật nói chung. Tuy vậy, cũng như đối với chủ nghĩa Marx Ănghen, học thuyết này cũng bị xuyên tạc một cách bỉ ổi và không thương tiếc bởi bè lũ ngụy khoa học.
Hãy cùng trích dẫn lời của Theodosius Dobzansky, một trong số những người sáng lập thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại, "Không có cái gì trong sinh học có ý nghĩa ngoại trừ nó được xem xét dưới ánh sáng của sự tiến hóa" Để hiểu được tính đúng đắn trong lời khẳng định của Dobzansky, ta sẽ phải cùng tìm hiểu đối tượng chính trong lời khẳng định ấy.
Thuyết tiến hóa hiện đại, gồm những gì ?
Trước khi bắt đầu đào sâu vào luận thuyết khoa học đồ sộ này, ta phải hiểu trước tiên, bản thân thuyết tiến hóa hiện đại là một luận thuyết khoa học tổng hợp đã được hoàn chỉnh qua thời gian, thế nên tất cả các ngành khoa học cấu thành nên học thuyết này và tất cả những kiến thức liên quan, đều trong mối quan hệ biện chứng hữu cơ sâu sắc và không thể tách rời. Để nhằm mục đích trình bày sao cho dễ hiểu và phác thảo nên một bức tranh toàn cảnh về vấn đề, và để nhằm sau khi đóng quyển sách này lại, sẽ không còn xuất hiện thêm bất cứ một kẻ không mời nào, có thể vô tri đến nỗi cứ lập đi lập lại các luận điểm cũ rích và khai thác một cách hèn nhát những điểm yếu cố hữu trong thuyết tiến hóa cổ điển, từ đó quy chụp một cách vội vàng lên hệ thống các lý thuyết tiến hóa hóa hiện đại và làm mài mòn đi tính sắc bén của chúng, tất cả hệ thống các lý thuyết của thuyết tiến hóa hiện đại, cũng như mọi dẫn chứng khoa học thực nghiệm liên quan, đều sẽ được hệ thống hóa và trình bày theo trình tự quy mô tổ chức sống- Bắt đầu từ những phân tử sống hữu cơ đầu tiên, và lịch sử quá trình vận động tích lũy về lượng của chúng, đến các tổ chức sống hoàn chỉnh hơn: Tế bào-cá thể-quần thể-loài-vvv.
1/Phần đầu- qua lăng kính sinh học phân tử
Sự sống bắt đầu như thế nào ? Thế nào mà một vật mới được coi là “sống” ? Hiện tượng mà chúng ta gọi là sự sống, dù cho diễn giải theo phương pháp luận triết học hay lập luận và dẫn chứng khoa học đi chăng nữa, đều không thể giải thích chỉ bằng một vài dòng chữ. Đối với các triết gia duy tâm và những nhà thần học siêu hình, sự sống không chỉ đơn thuần là sự sống, hay nói đúng hơn thì họ không chỉ coi sự sống là một hình thái vận động của vật chất[1]. Quả thật là cái phong phú trong tâm trí mê sản của các nhà duy tâm và cái phong phú ẩn bên trong sự sống đều muôn màu muôn vẻ. Nhưng rõ ràng một bên là cái sặc sỡ của những màn tô son, trác phấn và rắc nước thánh, bên còn lại là cái biện chứng khách quan vô tận của tự nhiên, thứ vốn chắc chắn không phải là những lời sấm truyền được phán ra trong những thời khắc nửa tỉnh nửa say. Bằng trí tưởng tượng phong phú vốn có, các nhà học giả duy tâm đã hiên ngang áp đặt lên sự sống tội nghiệp, thứ chỉ đang cố gắng để duy trì hình thái vận động của chính nó (xu hướng đó chính là một hệ quả khách quan của quá trình tổ chức về chất và tích lũy về lượng) một ý chí, một mục tiêu và từ đó, không bằng cách này thì cách khác, đã thổi hồn vào sự sống, đã tách nó ra làm 2 phần riêng biệt.
Ta hãy bắt đầu bằng việc đem Sinh lực luận-một trong những minh chứng rõ nét nhất cho sự ngông cuồng không giới hạn được kết tinh ra từ tâm trí mê sản của các nhà duy tâm- ra mổ xẻ. Sinh lực luận, quan niệm rằng nguồn lực sự sống, thứ không nằm trong thẩm quyền của cái biện chứng khách quan của tự nhiên, là một ân điển do chúa trời ban xuống khu vườn nhỏ của ngài. Học thuyết này cho rằng các hợp chất sống-theo cách nói hiện nay là chất hữu cơ-không thể nào được tổng hợp từ các chất vô cơ đơn thuần mà bắt buộc phải thông qua các sinh vật khác.
Sinh lực luận - nếu ta lột trần cái vỏ sấm truyền của nó, thì vấn đề chỉ đơn thuần là dùng một từ ngữ khác mang tính ma mị và thần bí hơn của “sự sống”. Các nhà duy tâm và những tín đồ ngoan đạo không chấp nhận cái khái niệm “sự sống” tầm thường, nên bằng một niềm tin bất biến và vĩnh hằng, họ nỗ lực thay thế “sự sống” bằng một danh từ mỹ miều hơn - “sinh lực”, và lẽ đương nhiên là điều đó không giúp họ tiến xa thêm một bước nào trong việc giải thích cội nguồn của con người. Họ hứa hẹn sẽ khai sáng và đem lại trí tuệ cho quần chúng, nhưng thay vào đó lại dẫn dắt quần chúng vào cái bóng tối đui mù, và bỏ mặt quần chúng loay hoay ở cái xó ấy.
Thế thì cứ giả là thứ “sinh lực” đó có thật, vậy thì thứ sinh lực ấy sản sinh ra từ đâu, khi nào. Nó nảy nở và suy tàn ra sao, hay là vĩnh viễn bất biến? Về mặt này thì các nhà duy tâm lại vô cùng ái ngại khi bị sờ gáy. Họ lúng túng với những quan điểm siêu hình mà họ đã tự lấy ra để trói tay chính mình. Đối với họ, một quy lực rất ư là đơn giản - sự sống là một dạng vận động cao của vật chất, là kết quả của quá trình tích lũy, phát triển về lượng của các hợp chất hóa học, đến một ngưỡng nhất định thì mới trở thành sự sống, quy luật đơn giản như thế thật khó để họ chấp nhận làm sao.
Đáng tiếc thay, nền tảng luận cứ cho thuyết sức sống đã bị chôn vùi bởi sự phát triển của những kĩ thuật mới và tiên tiến, thứ cho phép các nhà khoa học tiến hành những thí nghiệm mà trước đây họ chỉ có thể đoán mò theo kiểu “thầy bói xem voi”. Năm 1828, Fredrich Wolhler, một nhà hóa học người Đức- bằng những phương pháp rất đậm chất Đức- trộn lẫn mọi thứ lại với nhau- đã lần đầu tổng hợp thành công Urê [2], hợp chất hữu cơ có trong nước tiểu động vật từ ion amonium(NH4+) và ion cyanate(CHO-). Tuy đã mơ hồ cảm nhận được sự rung chấn và diệt vong đang đến dưới chân mình, những tín đồ của Sinh lực luận vẫn sẽ tiếp tục sống khỏe để tiếp tục huênh hoang về tình yêu của chúa trong vài thập kỷ nữa, cho đến khi các chất hữu cơ phức tạp hơn được tổng hợp bởi sự kiên trì và chịu khó của các nhà hóa học.
Năm 1953, Stanley Miller đã xây dựng thành công một hệ thống kín tái tạo những điều kiện nguyên thủy tồn tại ở Trái Đất thuở sơ khai. Hệ thống trên của ông gồm :
1. Hỗn hợp dung dịch dung môi với thành phần tương tự như thành phần nước biển ở các đại dương thuở sơ khai. Nước “biển” trong bình này được nung nóng và bốc hơi vào “khí quyển”
2. “Khí quyển” chứa hỗn hợp khí H2,CH4,NH3, hơi nước, với các tia lửa điện với điện áp cao được bật tắt liên tục giống như những tia chớp, mô phỏng lại bầu khí quyển của trái đất sơ khai

Trong lúc chờ cho thí nghiệm
tiến hành, ta hãy cùng giết thời gian bằng một vài câu hỏi đơn giản. Dựa vào bằng
chứng thực nghiệm nào mà Miller lại có thể thiết kế nên một hệ kín mô phỏng các
điều kiện sơ khai của Trái Đất ? Nhiều bằng chứng khoa học trên thực địa đã cho
thấy được rằng bầu khí quyển đầu tiên của trái đất, do hệ quả của những vụ phun
trào núi lửa và vận động địa chất- vốn là một hiện tượng không hiếm gặp và xảy
ra liên miên tại thời điểm đó- dày đặc hơi nước cùng các hợp chất khác nhau được
tống lên từ lớp địa chất thông qua phun trào núi lửa như nitrogen và các oxit của
nó, CO2, CH4,….[3] Khi bề mặt trái đất nguội dần, hơi nước-đem theo các hợp chất
xung quanh-ngưng tụ lại thành các đại dương mênh mông và đậm đặc điện tích. Môi
trường đậm đặc điện tích trên đã nhanh chóng đưa các nguyên tố phi kim vào trạng
thái kích thích, từ đó hình thành các liên kết hóa học và bắt đầu quá trình
tích lũy về lượng để tạo ra các hợp chất phức tạp hơn, trong đó có những phân tử
sống đầu tiên- còn được gọi là các hợp chất và phân tử hữu cơ đơn giản. Các
phân tử hữu cơ này, nhờ tính phân cực của chúng (Do sự chênh lệch trong độ âm
điện của các nguyên tố cấu thành phân tử) lại tiếp tục có xu hướng gắn kết với
nhau và từ đó tiếp tục hình thành các phân tử hữu cơ có cấu trúc và tính chất
hóa học phức tạp hơn nữa. Sự tích lũy về lượng này sẽ dẫn đến sự biến đổi về
tính chất( nhưng vẫn trong khuôn khổ các quy luật khách quan của tự nhiên) dẫn
đến việc hình thành những tổ chức sống nguyên sơ đầu tiên. Sẽ thật thiếu sót, nếu
ta chỉ nói về phương thức vận động và quá độ của một sự vật, hiện tượng thành
các hình thái khác với ban đầu (Ở đây là các phân tử hữu cơ sơ khai) mà không
nói đến xu hướng biến đổi của sự vật, hiện tượng ấy. Ta bắt đầu bằng việc nhắc
lại kiến thức và xem xét trạng thái ban đầu và nguyên thủy của sự vật hiện tượng,
cùng với các giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động của sự vật hiện tượng
mà ta đang xét: Các nguyên tử phi kim và kim loại trong trạng thái cân bằng về
điện và không bị kích thích. Các nguyên tử trung hòa này, bởi vì do ở trong môi
trường là một dung môi dẫn điện với mật độ điện tích cao, nhanh chóng trở nên
kích thích và thường có xu hướng liên kết với nhau để trung hòa sự kích thích ấy.
Các phân tử được hình thành do sự liên kết giữa các nguyên tử kim loại và phi
kim lại có tính phân cực khiến chúng tiếp tục có xu hướng liên kết với nhau và
từ đó hình thành nên các phân tử có phân tử khối lớn hơn và tính chất phức tạp
hơn. Trong trường hợp mà ta xem xét này, ta có thể nói rằng, ở giai đoạn ban đầu
của quá trình vận động nguyên tử trung hòa đã phủ định chính nó, trở thành các
nguyên tử trong trạng thái kích thích. Và các nguyên tử này lại tiếp tục phủ định
chính bản thân chúng và trở thành các hợp chất đơn giản, vô cơ lẫn hữu cơ, và sẽ
tiếp tục vòng lập này tới vô tận, dù là sẽ ở một quy mô và cấp độ khác. Vòng lập
vô tận trên”Phủ định của phủ định” chính là xu hướng vận động của vật chất
trong thế giới quan của chủ nghĩa Mác Lênin và là một trong ba trụ cột của phép
biện chứng duy vật. Quay trở về với thí nghiệm trên của Miller, ta sẽ có kết quả
như sau: Ta sẽ thu được các phân tử hữu cơ đủ thể loại, từ formaldehyde (CH2O),
hydrogen cyanide (HCN) cho đến các phân tử phức tạp hơn và luôn góp mặt trong mọi
tổ chức sống như các amino acid, hydrocacbon và các acid nucleotide. Kết quả của
thí nghiệm này hoàn toàn phù hợp với quan điểm biện chứng, là vật chất luôn
luôn vận động, theo cách này hay cách khác. Từ phân tích dẫn chứng là kết quả
thí nghiệm trên, ta có thể khẳng định là nguồn gốc về sự phát sinh sự sống trên
trái đất là do các yếu tố tự nhiên khách quan (Nếu trình bày theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng thì các yếu tố tự nhiên khách quan kia bao gồm các
yêu tố mâu thuẫn nội tại và ngoại tại ở sự vật), và lịch sử quá trình phát sinh
và phát triển của sự sống trên trái đất chính là lịch sử của quá trình tích lũy
về lượng
và biến đổi về chất; đồng thời
xu hướng vận động của quá trình này là xu hướng “Phủ định của phủ định”. Để hình
dung dễ hiểu, nếu ta coi toàn bộ quá trình ấy là sự chuyển động của bánh xe đạp,
thì bản thân cái bánh xe đạp đó phải trải qua quá trình tích lũy về lượng và
biến đổi về chất để có thể chuyển động. Còn lực đạp để khiến bánh xe chuyển động
ấy chính là các mâu thuẫn nội tại và ngoại tại ở sự vật, còn hướng đạp nơi cái
bánh lăn liên tục xoay vòng chính là quy luật “phủ định của phủ định của phủ định”.
Kết luận: Trong một môi trường
phức tạp và đầy biến động như môi trường sơ khai trên trái đất, và với việc các
điều kiện sống đã được tích lũy đầy đủ, sự sống được hình thành như một hệ quả
tất yếu của sự vận động khách quan của tự nhiên, chứ không phải là thành quả của
một suy nghĩ nhất thời của một thế lực thần bí và quyền lực nào đó mà các nhà
duy tâm luôn rao giảng cho quần chúng một cách chắc nịt.
Thí nghiệm của Miller cùng với
các bằng chứng thực nghiệm cấu thành khác đã hoàn toàn chôn vùi sinh lực luận
và các tín đồ của nó vào sự lãng quên bên trong dòng chảy bất tận của thời
gian. Với việc những cơ sở lí luận cho thuyết cơ giới-với quan điểm hoàn toàn
phù hợp và đồng nhất với quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- được
thiết lập, đã kéo tấm màn kết thúc cho một đêm trường trung cổ tăm tối, một thời
đại nơi mà quyền thống trị nằm trong tay những kẻ duy tâm chủ nghĩa đã rêu rao
cho các con chiên ngoan đạo của mình và lặp đi lặp lại về cái bài ca thần thánh
tuyệt đối hoang tưởng của chúng, mở ra một thời đại mới, nơi khoa học không còn
bị trói buộc trong cái hạn hẹp của thần học, và ý thức con người được soi đường
dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chú thích
[1]: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan, duy vật là cho rằng thực tại khách quan, duy vật là cho con người
trong cảm giác, duy vật là cho cảm giác của chúng ta phản ánh lại, chép lại, chụp
lại, phản ánh lại tồn tại khách quan, cảm giác." — V.I. Lênin, "Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"
[2]:Early German Physician
First To Synthesize Urea - Marc A. et al. Mayo Clinic
Proceedings, Volume 60, Issues 10, 662
[3]: Earth earliest
atmospheres - Cold Spring Habor Labortary Press
Tài liệu tham khảo
1. https://ntrs.nasa.gov/api/citations/20050139759/downloads/20050139759.pdf
2. https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC4089479/pdf/jove-83-51039.pdf
0 Reviews:
Đăng nhận xét